Bệnh mắt Graves là biểu hiện ngoài tuyến giáp phổ biến nhất của bệnh Graves, sự xuất hiện của nó có liên quan đến việc một lượng lớn tế bào lympho xâm nhập vào mô sau hốc mắt, sự tích tụ mucopolysaccharide và lắng đọng glycosaminoglycan. Các cuộc điều tra dịch tễ học hiện đại cho thấy tỷ lệ mắc bệnh mắt Graves ở nước tôi là khoảng 1%, 25%~50% bệnh nhân Graves có biểu hiện rõ ràng về mắt bị ảnh hưởng, như lồi mắt, đau tức, hạn chế vận động, mí mắt phù nề, cảm giác cộm mắt, giảm thị lực, v.v., những trường hợp nặng có thể dẫn đến mù lòa [1-2]. Tây y áp dụng các phương pháp điều trị bệnh này như bổ sung selen, liệu pháp xung hormone, điều trị ức chế miễn dịch, xạ trị sau hốc mắt và phẫu thuật giải ép hốc mắt. Những phương pháp điều trị này có hiệu quả nhất định trong việc giảm độ lồi mắt của bệnh nhân, nhưng chúng cũng có các vấn đề như tác dụng phụ lớn, chu kỳ điều trị dài và bệnh khó chữa [3-4]. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến công việc, cuộc sống, đặc biệt là ngoại hình của bệnh nhân. Trong những năm gần đây, nghiên cứu lâm sàng đã phát hiện ra rằng YHCT có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát viêm, giảm phù nề, cải thiện chuyển hóa hormone và điều chỉnh tự miễn dịch trong điều trị bệnh mắt Graves [5-6], và có ít tác dụng phụ. Vì vậy, bài viết này sẽ xem xét các tài liệu nghiên cứu liên quan đến điều trị bệnh mắt Graves bằng YHCT, nhằm mục đích cung cấp các phác đồ điều trị hiệu quả hơn.
1. Điều trị bằng YHCT
Các thầy thuốc hiện đại đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm lâm sàng phong phú trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh mắt Graves, cho rằng bệnh mắt Graves có vị trí ở mắt, Can là tạng phủ chủ yếu gây bệnh, thường liên quan đến Tỳ, Thận, đàm ngưng, huyết ứ là yếu tố bệnh lý chính, hư thực thường khác nhau tùy theo thời gian mắc bệnh.
1.1. Biện chứng luận trị bệnh mắt Graves giai đoạn hoạt động bằng YHCT
Bệnh mắt Graves giai đoạn hoạt động chủ yếu là chứng thực, can hỏa thượng viêm là cơ chế bệnh sinh cơ bản của nó, lâu ngày đàm ứ kết hợp với nhau ở mắt, khiến độ lồi mắt tăng lên. Do đó, trọng tâm điều trị trong giai đoạn hoạt động dần dần chuyển từ thanh can tả hỏa sang hoạt huyết hóa ứ [7].
1.1.1. Luận trị từ can hỏa
Giáo sư Mã Lệ [8] cho rằng, điều trị bệnh mắt Graves giai đoạn hoạt động chủ yếu nên thanh can minh mục, hóa đàm tán kết, sử dụng Sài hồ sơ can tán kết hợp với Nhị trần thang gia giảm. Sau khi điều trị, phát hiện bài thuốc này không chỉ có thể giảm các triệu chứng lồi mắt, mí mắt phù nề, đau tức khi vận nhãn, v.v., mà còn có thể cải thiện nồng độ FT3, FT4, TSH và kháng thể tự miễn tuyến giáp. Dư Đan Đan và cộng sự [9] phát hiện ra rằng Tả hỏa bình đột tán (Long đởm thảo, Hạ khô thảo, Bạch tật lê, Chi tử, Thanh đại, Thanh tương tử, Mẫu đơn bì, Xích thược, Hoàng cầm, Cúc hoa, Hoàng dược tử), một bài thuốc có tác dụng thanh can tả hỏa, hoạt huyết tán kết, kết hợp với điều trị cơ bản bằng Tây y cho bệnh mắt Graves giai đoạn hoạt động có tỷ lệ hiệu quả (81,28%) cao hơn so với điều trị cơ bản bằng Tây y đơn thuần (63,64%), và có lợi thế hơn trong việc giảm phân loại NOSPECS và điểm CAS. Phạm Diễm Phi và cộng sự [10] đã tiến hành nghiên cứu lâm sàng bằng cách sử dụng Đan chi tiêu dao tán kết hợp với glucocorticoid, phương pháp điều trị này không chỉ có thể làm giảm đáng kể độ lồi mắt và điểm CAS ở bệnh nhân bệnh mắt Graves giai đoạn hoạt động, mà còn có thể giảm liều lượng hormone và tỷ lệ mắc các tác dụng bất lợi. Ngoài ra, người ta còn phát hiện ra rằng cơ chế tác dụng điều trị của nó có thể là thông qua việc điều chỉnh sự cân bằng cytokine Th1/Th2 cục bộ.
1.1.2. Luận trị từ hoạt huyết
Thạch Đông Hà và cộng sự [11] đã sử dụng Hóa đàm hoạt huyết tiêu đột thang (Hoàng kỳ, Phục linh, Sài hồ, Uất kim, Mật mông hoa, Tri mẫu, Thủy điệt, Toàn yết) gia giảm để điều trị bệnh mắt Graves, và so sánh với điều trị bằng prednisone uống trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, phát hiện ra rằng bài thuốc này có tác dụng rõ rệt hơn trong việc cải thiện các triệu chứng đau tức, phù nề kết mạc nhãn cầu ở bệnh nhân bệnh mắt Graves so với điều trị bằng hormone. Sư Kim Quyên và cộng sự [12] đã tiến hành nghiên cứu đối chứng bằng cách sử dụng Ưng đột 1 hiệu phương (Hoàng kỳ, Bạch truật, Xuyên sơn long, Hàn phòng kỷ, Trần bì, Hạ khô thảo, Bán hạ, Phục linh, Xa tiền tử, Thủy điệt), một bài thuốc có tác dụng khử đàm, hoạt huyết, và prednisone uống để điều trị 84 bệnh nhân bệnh mắt Graves giai đoạn hoạt động cấp III. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hiệu quả của nhóm YHCT (85,71%) cao hơn đáng kể so với tỷ lệ hiệu quả của nhóm đối chứng (30,95%), và nhóm YHCT cũng vượt trội hơn nhóm đối chứng về việc giảm nồng độ TRAb, giảm các triệu chứng lồi mắt, co rút mí mắt trên, v.v.
1.2. Biện chứng luận trị bệnh mắt Graves giai đoạn không hoạt động bằng YHCT
Bệnh mắt Graves giai đoạn không hoạt động kéo dài, tái phát nhiều lần, khó chữa, đặc điểm bệnh lý của nó là bản hư biểu thực, hư thực lẫn lộn, do đó, đồng thời với việc khử tà, thông lạc, cũng cần chú ý bồi bổ khí huyết, âm dương, để đạt được mục đích phù chính bổ hư, điều trị cả gốc lẫn ngọn.
1.2.1. Luận trị từ tỳ
Vu Tử Hàm và cộng sự [13] đã tiến hành nghiên cứu đối chứng bằng cách sử dụng Thuốc co mắt (Bạch truật, Phục linh, Ý dĩ nhân, Hoàng kỳ, Bách bộ, Thanh tương tử, Bạch tật lê, Ích mẫu thảo, Hàn phòng kỷ), một bài thuốc có tác dụng kiện tỳ hóa đàm, ích khí minh mục, kết hợp với methimazole, và prednisone kết hợp với methimazole để điều trị 60 bệnh nhân bệnh mắt Graves. Nghiên cứu cho thấy nhóm YHCT vượt trội hơn đáng kể so với nhóm đối chứng về việc giảm lồi mắt, phù nề mí mắt, phục hồi thị lực, cũng như cải thiện các triệu chứng run tay, mệt mỏi, tiêu chảy, v.v., và có ít tác dụng phụ hơn so với nhóm đối chứng; không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về việc cải thiện các chỉ số chức năng tuyến giáp. Vương Xuân Hồng [14] đã sử dụng Nhị trần thang kết hợp với bài thuốc bổ huyết, hoạt huyết Đào hồng tứ vật thang để điều trị bệnh mắt Graves ở 68 bệnh nhân. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiệu quả chung của điều trị là 89,8%, có tác dụng cải thiện rõ rệt các triệu chứng đau tức, sợ ánh sáng, chảy nước mắt, lồi mắt của bệnh nhân.
1.2.2. Luận trị từ thận
Dịch Kinh Hồng [15] đã sử dụng Nhất quán tiễn gia giảm Hạ khô thảo, Liên kiều, Hàng cúc hoa, v.v., kết hợp với methimazole để điều trị bệnh mắt Graves thể can thận âm hư. Phát hiện ra rằng phác đồ này không chỉ có hiệu quả lâm sàng tốt trong việc giảm lồi mắt, giảm khô mắt, mà còn có thể cải thiện các triệu chứng như tâm trạng u uất, đau lưng, mệt mỏi, v.v. Lý Hồng và cộng sự [16] đã tiến hành thử nghiệm lâm sàng đối chứng bằng cách sử dụng Bình mục thang (Hoàng kỳ, Dâm dương hoắc, Bạch hoa xà thiệt thảo, Xa tiền tử, Bạch giới tử, Đan sâm), một bài thuốc có tác dụng ôn thận trợ dương, khử đàm, hoạt huyết, và prednisone để điều trị 76 bệnh nhân bệnh mắt Graves giai đoạn không hoạt động. Phát hiện ra rằng tỷ lệ hiệu quả của nhóm YHCT (85,71%) cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (29,03%) về cải thiện chứng trạng YHCT; tỷ lệ hiệu quả của nhóm YHCT (77,14%) cũng cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (29,03%) về việc giảm độ lồi mắt, và tỷ lệ mắc các tác dụng bất lợi thấp hơn so với điều trị bằng hormone. Người ta còn phát hiện ra rằng cơ chế tác dụng của bài thuốc này là thông qua việc thúc đẩy quá trình chết theo chương trình của tế bào mỡ, giảm sự tích tụ tế bào mỡ hốc mắt.
2. Châm cứu
Phương pháp chọn huyệt châm cứu dựa trên học thuyết kinh lạc, và được chia thành huyệt gần, huyệt xa và huyệt biện chứng tùy theo đặc điểm của bệnh chứng. Khi điều trị bệnh mắt Graves, huyệt gần thường chọn Phong trì, Tư trúc không, Thượng thiên trụ, Toản trúc, Thượng minh, Dương bạch, Thái dương, Tinh minh, Cầu hậu, v.v., để khai thông kinh lạc quanh hốc mắt, thúc đẩy khí huyết vận hành ở mắt; huyệt xa thường chọn Hợp cốc, Nội quan, Túc tam lý, Phong long, Tam âm giao, Thái xung, Hành gian, v.v., để điều hòa chức năng tạng phủ, phục hồi cân bằng âm dương toàn thân.
2.1. Châm cứu đơn thuần
Châm cứu đơn thuần thích hợp cho bệnh nhân bệnh mắt Graves nhẹ hoặc giai đoạn không hoạt động, thông qua phương pháp chọn huyệt biện chứng và phương pháp kết hợp huyệt gần và xa có thể cải thiện hiệu quả bệnh tình của bệnh nhân. Giáo sư Trần Tuấn Quân [17] đã điều trị một trường hợp bệnh mắt Graves thể phong dương thượng nhiễu bằng châm cứu các huyệt Quang minh, Thái xung, Phong trì, Hợp cốc, Tam âm giao để bình can tức phong, hoạt huyết thông lạc, châm cứu các huyệt quanh hốc mắt như Thái dương, Tân minh II, Cầu hậu, Thượng minh để thông lạc minh mục. Sau 1 tháng điều trị, cảm giác cộm mắt của bệnh nhân cơ bản biến mất, mí mắt có thể nhắm lại, thị lực được cải thiện. Hà Kim 森 và cộng sự [18] sau khi nghiên cứu đã phát hiện ra rằng châm cứu điều trị bệnh mắt Graves, phương pháp kết hợp huyệt gần và xa có tỷ lệ hiệu quả (88,24%) cao hơn đáng kể so với châm cứu quanh hốc mắt (78,79%) và methimazole (58,52%), độ lồi mắt giảm trung bình (1,19±0,77) mm. Hoàng Giai Nguyệt [19] phát hiện ra rằng mặc dù hiệu quả lâm sàng của châm cứu (Cầu hậu, Tinh minh, Phong trì, Trung chử, Túc tam lý, Quang minh, Hành gian) và uống Đan chi tiêu dao hoàn tương đương nhau trong điều trị bệnh mắt Graves thể can uất hóa hỏa giai đoạn không hoạt động từ trung bình đến nặng, nhưng châm cứu có lợi thế hơn trong việc giảm lồi mắt, thu hẹp khe mi, cải thiện phù nề mí mắt và thị lực so với uống Đan chi tiêu dao hoàn.
2.2. Châm cứu kết hợp với methimazole
Mặc dù thuốc kháng giáp hiện nay có thể kiểm soát hiệu quả nhiễm độc giáp, điều chỉnh nồng độ hormone tuyến giáp, nhưng có thể gây ra các tác dụng phụ như giảm bạch cầu hạt, phát ban, viêm mạch, tổn thương gan, v.v., đồng thời có các vấn đề như chu kỳ dùng thuốc dài, tỷ lệ tái phát cao [20-21]. Methimazole được sử dụng nhiều hơn trong lâm sàng để điều trị. Hạ Dũng và cộng sự [22] đã chia ngẫu nhiên 52 bệnh nhân bệnh mắt Graves thành nhóm châm cứu – thuốc và nhóm Tây y. Nhóm Tây y được điều trị bằng methimazole và levothyroxine. Nhóm châm cứu – thuốc được châm cứu các huyệt Nội đồng tử liêu, Cầu hậu, Thượng minh, Tư trúc không, Thượng thiên trụ, Thái xung, Khí ưng, Phong long trên cơ sở nhóm Tây y. Nghiên cứu cho thấy nhóm châm cứu – thuốc có tác dụng cải thiện rõ rệt hơn so với nhóm Tây y về việc cải thiện tình trạng co rút mí mắt trên và không thể nhắm kín mí mắt (P<0,01), và không xuất hiện các phản ứng bất lợi như lồi mắt nặng hơn, giảm bạch cầu ở nhóm Tây y. Tào Nghị và cộng sự [23] đã kết hợp methimazole với châm cứu các huyệt Thượng thiên trụ, Phong trì, Tư trúc không, Cầu hậu, Thượng minh, Nội đồng tử liêu, Phong long, Hợp cốc, Khí ưng. So với việc chỉ sử dụng methimazole uống, ngoài việc tăng tỷ lệ hiệu quả chung của điều trị, phương pháp này còn có thể làm giảm đáng kể nồng độ FT3, FT4. Điều này chứng minh rằng châm cứu kết hợp với methimazole, so với methimazole uống đơn thuần, không chỉ có hiệu quả lâm sàng tốt hơn trong việc điều chỉnh chức năng tuyến giáp, cải thiện nhiễm độc giáp, mà còn có thể làm giảm hiệu quả các triệu chứng lồi mắt của bệnh nhân và giảm tác dụng phụ do điều trị bằng methimazole.
2.3. Châm cứu kết hợp với xoa bóp huyệt vị
Xoa bóp huyệt vị có tác dụng khai thông kinh khí quanh hốc mắt, cải thiện vi tuần hoàn cục bộ, giảm mệt mỏi cơ, điều chỉnh hưng phấn thần kinh và tăng cường khả năng tự miễn dịch [24-25]. Nghiên cứu hiện đại đã phát hiện ra rằng châm cứu kết hợp với xoa bóp huyệt vị có thể điều hòa dây thần kinh thị giác, thúc đẩy tuần hoàn máu quanh hốc mắt, từ đó giảm lồi mắt, giảm phù nề mí mắt, phục hồi chức năng thị giác. Hứa Vĩ Minh và cộng sự [26] đã tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng bằng cách châm cứu các huyệt Tinh minh, Dương bạch, Thượng minh, Khúc trì, Quang minh, Thái xung, và kết hợp xoa bóp các huyệt Phong trì, Thượng thiên trụ, Kình giáp tích, Ế phong, Ế minh và các huyệt quanh hốc mắt, với điều trị bằng tiêm tĩnh mạch dexamethasone và methotrexate, uống prednisone ngắt quãng. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hiệu quả chung của nhóm châm cứu – xoa bóp (83,3%) cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (53,8%); lượng giảm lồi mắt của nhóm châm cứu – xoa bóp (2,16±0,71) mm cũng cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (0,93±0,44) mm; và không xuất hiện các phản ứng bất lợi như béo phì hướng tâm, mất ngủ, rụng tóc ở nhóm đối chứng. Trương Lợi Đa [27] đã chia ngẫu nhiên 50 bệnh nhân bệnh mắt Graves thành hai nhóm. Nhóm đối chứng được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt natri carboxymethylcellulose kết hợp với methimazole. Nhóm quan sát được châm cứu và xoa bóp huyệt vị trên cơ sở nhóm đối chứng. Châm cứu các huyệt Thái xung, Phong trì, Thượng thiên trụ, Kình 2 và Kình 4 giáp tích; xoa bóp các huyệt Toản trúc, Thái dương, Cầu hậu, Thượng minh. Theo tiêu chuẩn giảm lồi mắt lớn hơn 1 mm là hiệu quả, tỷ lệ hiệu quả chung của nhóm quan sát (82,6%) cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (56,5%), và theo thời gian điều trị, sự cải thiện các triệu chứng chủ quan như khó chịu ở mắt của bệnh nhân cũng tốt hơn so với nhóm đối chứng. Có thể thấy, phương pháp châm cứu kết hợp xoa bóp có hiệu quả lâm sàng rất đáng tin cậy trong bệnh mắt Graves, không chỉ có thể giảm hiệu quả độ lồi mắt, giảm phù nề mí mắt, mà còn có thể tránh được các phản ứng bất lợi do sử dụng hormone.
2.4. Châm cứu kết hợp với chích máu ở tai
Thả máu sau tai có tác dụng hoạt huyết thông lạc, tiêu thũng tán kết, sơ phong thanh nhiệt, điều hòa âm dương, đồng thời có thể cải thiện chức năng miễn dịch của cơ thể [28-29]. Phương pháp thả máu ở đỉnh tai có tác dụng thanh nhiệt minh mục, hóa ứ tiêu trưng, hạ huyết áp, tiêu viêm, giảm đau và nâng cao khả năng miễn dịch [30]. Trong quá trình điều trị bệnh mắt Graves, việc áp dụng chích máu tại chỗ kết hợp với châm cứu, vừa có thể điều hòa khí cơ toàn thân, phục hồi chức năng tạng phủ, vừa giúp tăng cường điều trị trực tiếp vào ổ bệnh, khiến bệnh tình được cải thiện nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tạ Truyền Sao và cộng sự [31] đã điều trị bệnh nhân bệnh mắt Graves bị suy giáp sau khi điều trị bằng iốt 131 bằng châm cứu kết hợp với thả máu sau tai. Châm cứu các huyệt Thái dương, Tứ bạch, Toản trúc, Thiên trụ, Phong trì, Thái xung, và thả máu ở vùng có bóng mạch máu mờ trên sau tai. Tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với levothyroxine natri uống. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hiệu quả chung của nhóm châm cứu kết hợp với thả máu sau tai (91,67%) cao hơn nhóm đối chứng (75,00%), và tốc độ phục hồi nồng độ TSH bình thường nhanh hơn đáng kể so với nhóm đối chứng. Ngoài ra, cũng không xuất hiện các tác dụng bất lợi như mất ngủ, giảm tiểu cầu, hạ kali máu ở nhóm đối chứng. Đường Vãn [32] đã thêm các huyệt Tinh minh, Dương bạch, Đồng tử liêu, Túc tam lý, Tam âm giao, v.v., trên cơ sở chọn huyệt châm cứu của mình, thay đổi vị trí thả máu từ bóng mạch máu mờ trên sau tai thành đỉnh tai hai bên, và tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với methimazole uống. Kết quả cho thấy, tỷ lệ hiệu quả chung của châm cứu kết hợp với thả máu (88,89%) cao hơn đáng kể so với methimazole uống (67,86%), giảm lồi mắt ≥1 mm, và có thể làm giảm đáng kể các triệu chứng chủ quan như đau tức, cảm giác cộm mắt ở bệnh nhân.
2.5. Điện châm
So với châm cứu các huyệt ở mắt theo cách truyền thống, điện châm có thể điều chỉnh hưng phấn dẫn truyền thần kinh bằng cách kích thích điện trực tiếp, cải thiện hình dạng bất thường của cơ mắt, thúc đẩy tuần hoàn máu cục bộ và tăng cường phục hồi thần kinh và cơ bắp, từ đó phục hồi hình dạng mắt và thị lực của bệnh nhân bệnh mắt Graves [33-34]. Vương Ảnh và cộng sự [35] đã chọn các huyệt Thái dương, Toản trúc, Phong long, Hành gian để điện châm khi điều trị 63 bệnh nhân bệnh mắt Graves ở 3 mức độ khác nhau: nhẹ, trung bình và nặng, đồng thời cạo gió và thả máu ở kinh bàng quang, đốc mạch. Nghiên cứu cho thấy các phương pháp điều trị trên có thể cải thiện hiệu quả độ lồi mắt của bệnh nhân, và hiệu quả có liên quan đến thời gian điều trị; tỷ lệ hiệu quả ở các mức độ bệnh khác nhau là khác nhau, tỷ lệ hiệu quả ở bệnh nhân nhẹ và nặng cao hơn so với bệnh nhân trung bình. Chiêm Minh Minh và cộng sự [36] phát hiện ra rằng khi sử dụng điện châm kết hợp với thuốc nhỏ mắt polyvinyl alcohol để điều trị bệnh mắt Graves, tỷ lệ hiệu quả chung là 95,8%, có thể làm giảm hiệu quả độ lồi mắt của bệnh nhân ≥2 mm và cải thiện chứng nhìn đôi. Chu Đan và cộng sự [37] đã sử dụng phương pháp tiêm triamcinolone acetonide vào huyệt Thượng minh kết hợp với điện châm để điều trị bệnh mắt Graves. Chọn các huyệt Toản trúc, Thượng minh, Tứ bạch, Thừa khấp, Phong trì, Thái xung để điện châm, và tiến hành thử nghiệm đối chứng với việc chỉ tiêm triamcinolone acetonide vào huyệt Thượng minh. Nghiên cứu cho thấy điện châm kết hợp với tiêm triamcinolone acetonide vào huyệt Thượng minh có lợi thế hơn trong việc cải thiện chiều cao khe mi và các triệu chứng co rút mí mắt trên. Các nghiên cứu trên cho thấy điện châm cũng có hiệu quả điều trị rõ ràng đối với bệnh mắt Graves, và nó vượt trội hơn đáng kể so với điều trị bằng Tây y về việc thu hẹp khe mi, giảm lồi mắt, cải thiện thị lực và nâng cao chất lượng cuộc sống.
3. Kết luận và triển vọng
Tóm lại, YHCT không chỉ có thể làm giảm độ lồi mắt, phục hồi thị lực, cải thiện chức năng tuyến giáp, điều chỉnh tự miễn dịch, mà còn có ưu điểm là ít tác dụng phụ, đánh giá an toàn cao hơn so với điều trị bằng Tây y. Khi kết hợp với hormone, nó cũng có thể làm giảm liều lượng hormone, cung cấp các phác đồ điều trị có lợi và hiệu quả hơn cho bệnh mắt Graves. Tuy nhiên, nghiên cứu lâm sàng về điều trị bệnh mắt Graves bằng YHCT hiện nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề như sau: số lượng tài liệu nghiên cứu lâm sàng về các phác đồ điều trị tương đối ít, thiết kế thử nghiệm chưa đủ nghiêm ngặt, ít chỉ số kết quả quan sát, và thiếu theo dõi lâu dài; ít nghiên cứu về cơ chế tác dụng liên quan của YHCT, châm cứu trong điều trị bệnh mắt Graves và việc kết hợp hai phương pháp này. Hy vọng trong nghiên cứu khoa học trong tương lai sẽ tăng cường nghiên cứu liên quan để hướng dẫn tốt hơn cho ứng dụng lâm sàng.